Nghiên cứu mộ cổ Huổi Pa (Thanh Hóa)
Khu mộ cổ Huổi Pa thuộc bản Tà Bản, xã Trung Sơn, huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hóa có tọa độ 20"37514" vĩ Bắc và 104493780" kinh Đông, độ cao so với mặt nước biển trên 130m. Di tích nằm ở chân núi, cạnh một con suối nhỏ gọi là Huổi (suối) Pa. Khu vực phân bố di tích thuộc lưu vực sông M...
Được lưu tại giá sách ảo:
Tác giả chính: | |
---|---|
Định dạng: | Bài báo |
Ngôn ngữ: | Vietnamese |
Xuất bản : |
Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2023
|
Chủ đề: | |
Truy cập trực tuyến: | https://dlic.huc.edu.vn/handle/HUC/4793 |
Từ khóa (tag): |
Thêm từ khóa
Không có thẻ nào, Hãy là người đầu tiên đánh dấu biểu ghi này!
|
Tóm tắt: | Khu mộ cổ Huổi Pa thuộc bản Tà Bản, xã Trung Sơn, huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hóa có tọa độ 20"37514" vĩ Bắc và 104493780" kinh Đông, độ cao so với mặt nước biển trên 130m. Di tích nằm ở chân núi, cạnh một con suối nhỏ gọi là Huổi (suối) Pa. Khu vực phân bố di tích thuộc lưu vực sông Mã phía tây tỉnh Thanh Hoá và Hoà Bình, Cảnh quan môi trường ở khu vực này là sự kết hợp giữa những dải đồi núi trùng điệp có mức phân cắt cao và lòng sông dốc hẹp quanh co nhiều thác ghềnh nằm giữa các khe núi, kết hợp với các khu vực suối nhánh đổ ra sông Mã theo dạng xương cá. Giao thông đường bộ và đường sông đều rất khó khăn cho đến hiện nay.
Di tích được phát hiện trong đợt “Khảo sát các nguồn tài nguyên văn hoá vật thể trong khu vực Dự án Thuỷ điện Trung Sơn, tỉnh Thanh Hoa” do Viện Khảo cổ học thực hiện năm 2008. Diện phân bố di tích khoảng 1.000m, là một khu có nhiều ngôi mộ được đặt các viên đá phiến kích cỡ khả lớn được chôn đánh dấu ở đầu hay/và xung quanh mộ. Loại hình và cấu trúc mộ tương tự một số khu mộ của người Mường, người Thái có niên đại khoảng thế kỷ XVI - XVII đã được Viện Khảo cổ học khai quật nghiên cứu trước đây. Tình trạng bảo quản của các mộ còn khá tốt.
Do di tích nằm trong vùng lòng hồ thủy điện Trung Sơn nên Công ty TNHH MTV Thủy điện Trung Sơn đã giao Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật nghiên cứu trong thời gian từ tháng 11/2015 đến tháng 4/2016 (Trần Quý Thịnh và cộng sự 2016). |
---|